Kỹ thuật ươm nuôi cá rô đồng và cách phòng trị bệnh |
||
Rô đồng là loài cá dữ, ăn tạp, nhưng nghiêng về động vật…
1. Dinh dưỡng
2. Sinh trưởng: Cá rô có tốc độ sinh trưởng tương đối chậm, sau 6 tháng nuôi cá đạt trọng lượng từ 60 – 100 g/con. 3. Sinh sản: Ngoài tự nhiên cá có tập tính sinh sản vào mùa mưa. Đầu mùa mưa cá di chuyển từ nơi sinh sống đến những nơi vừa ngập nước sau những cơn mưa lớn đầu mùa như ruộng, ao, đìa… nơi có mực nước 30 – 40 cm để sinh sản. Cá rô đồng không có tập tính giữ con. Khi chiều dài 12 cm cá rô tham gia sinh sản lần thứ nhất, sức sinh sản cá cao đạt 30-40 vạn trứng/kg cá cái. Trứng cá thuộc loại trứng nổi và có màu vàng.
1. Nuôi vỗ cá bố mẹ a. Ao nuôi vỗ
b. Cá bố mẹ: Cá mập, khỏe, không dị hình, có trọng lượng từ 50 – 100 g/con. c. Tỷ lệ cá đực/cái: Cá thả nuôi theo tỷ lệ 1 cá đực: 1 cá cái. Cá đực, cái nuôi chung. d. Mật độ: Cá được nuôi với mật độ 1 kg/m2 . e. Thức ăn
f. Thay nước
2. Cho cá rô sinh sản a. Tiêu chuẩn cá bố mẹ: Dựa vào các dấu hiệu ngoại hình như sau:
b. Kích dục tố – Loại kích dục tố: sử dụng phổ biến và có tác dụng gây rụng trứng cá là HCG (Human Chorionic Gonadotropin) và LHRHa + Dom (Lutenizing Hormon Releasing Hormon Analog + Domperidone). – Liều lượng tiêm: + Cá cái: – HCG tiêm 3.000 – 4.000 UI/kg – LHRHa 80 – 100 mg/kg + Cá đực: liều tiêm cá đực bằng 1/2 liều tiêm cá cái. – Vị trí tiêm: tiêm vào phần xoang cơ ở gốc vi ngực hoặc phần cơ ở gốc vi lưng. – Số liều tiêm: tiêm một liều. – Thời điểm tiêm: tùy thuộc vào việc chọn thời điểm cho cá đẻ. Nếu muốn cho cá đẻ vào ban ngày, tiêm vào buổi sáng (6 – 7 giờ); cho cá đẻ vào ban đ ê m, tiêm kích dục tố vào buổi chiều hoặc tối (18 – 20 giờ). c. Phương tiện cho cá đẻ
d. Bố trí cho cá đẻ: Sau khi tiêm kích dục tố xong thả cá vào bể hoặc thau đã vệ sinh và cho nước sạch vào, có thể bố trí cho đẻ với nhiều cặp cá bố mẹ trên cùng một bể xi măng hoặc bố trí riêng từng cặp trong thau. e. Tỷ lệ đực/cái: Bố trí 1 cá đực cho 1 cá cái, trường hợp cá đực nhiều có thể bố trí 3 cá đực cho 2 cá cái, cá đực nhiều rất tốt cho sự thụ tinh. f. Mật độ: Có thể thả chung 3 – 4 kg/m 3 nước hoặc cho 1 – 2 cặp cá vào trong một thau. g. Các dấu hiệu nhận biết cá sinh sản hay không: Khi thả cá vào bể đẻ nếu sau 2 – 3 giờ cá rượt đuổi nhau, mặt nước gợn sóng là dấu hiệu cá sẽ đẻ, lúc này cần theo dõi cá nhảy ra ngoài do những con chưa sẵn sàng tham gia sinh sản phải bắt thả trở lại; ngược lại cá không rượt đuổi nằm im một chỗ, đây là dấu hiệu cá sẽ không đẻ. h. Thời gian hiệu ứng
3. Ấp trứng a. Bể ấp – Có thể dùng bể xi măng hoặc thau cho cá đẻ để ấp trứng. Dụng cụ ấp trứng phải vệ sinh sạch, đặt nơi thoáng mát để dễ chăm sóc và quản lý. Cá sinh sản xong, tiến hành dùng vợt bằng lưới mùng vớt trứng chuyển qua thau hoặc bể khác có nước sạch để ấp. – Nếu dùng bể, thau vừa cho cá sinh sản xong để ấp, phải chuyển trứng và cá bố mẹ sang nơi khác, vệ sinh sạch cho nước mới vào và cho trứng vào ấp. Trường hợp không có phương tiện dự phòng để chuyển trứng đi, sau khi chuyển cá bố mẹ về ao nuôi vỗ, có thể thay 2/3 thể tích nước cũ và tiến hành ấp trứng. Hình thức này trứng bị hao hụt do việc di chuyển cá bố mẹ đi sẽ làm bể trứng và điều kiện vệ sinh môi trường không đảm bảo. b. Nước sử dụng: Sử dụng nước sông hoặc nước máy đều phải để lắng sau 24 giờ vì nếu sử dụng trực tiếp nước sông phù sa sẽ ảnh hưởng đến hô hấp của phôi, nước máy có chất sát trùng làm chết phôi. c. Mật độ ấp – 3.000 trứng/lít nước trong điều kiện nước tĩnh. – 6.000 trứng/ lít nước có sục khí. d. Chăm sóc trứng: Trong suốt quá trình ấp trứng không thay nước. Nếu trường hợp ấp không có sục khí mà tỷ lệ trứng không thụ tinh (trứng có màu trắng đục) cao có thể làm nhiễm bẩn môi trường do trứng ung, trường hợp này xảy ra thay ½ lượng nước, ngược lại nếu có sục khí không cần thay nước. e. Thời gian nở: Ấp trứng trong điều kiện nhiệt độ 26,5 – 28 o C sau 17 giờ 30 cá sẽ nở, 3 ngày sau khi cá nở chuyển đi ương.
1. Điều kiện bể ương a. Ao đất Diện tích: Cá rô có thể sống và phát triển tốt trong điều kiện diện tích lớn hay nhỏ. Nếu sử dụng ao có diện tích quá nhỏ hiệu quả kinh tế kém và khó tạo ổn định môi trường, nhưng ao quá lớn chăm sóc quản lý phức tạp, do đó nên chọn ao ương có diện tích từ 300 – 1.000 m 2 . Điều kiện ao ương: Ao phải có cống chủ động cấp thoát nước khi cần, chiều sâu mức nước trong ao từ 1,2 – 1,5 m; mặt ao thoáng để không ngăn cản ánh sáng mặt trời chiếu vào nước tạo điều kiện cho phiêu sinh vật phát triển, đây là loại thức ăn tự nhiên rất tốt cho sự phát triển của cá con. Trên bờ ao không có bụi rậm để các loài địch hại như rắn, ếch… không nơi ẩn nấp hạn chế việc sát hại cá ương nuôi. Trước khi thả cá ương nuôi tiến hành cải tạo ao bằng các biện pháp giống như ao nuôi vỗ cá bố mẹ, nhưng sau khi lấy nước vào 1/3 ao phải tiến hành bón phân tạo màu nước bằng 3 loại phân: 1. Phân vô cơ: Sau khi lấy nước vào ao đủ yêu cầu tiến hành bón phân đạm urê và super phosphate: + Tỷ lệ N/P=2/1 + Liều lượng 200g/100 m3 nước. + Cách bón: hòa tan phân trong nước và rải đều khắp mặt ao. 2. Phân xanh: Gồm những loại lá cây họ đậu hoặc lá so đũa. + Liều lượng: 10 – 15 kg/100 m2 ao. + Cách bón: sau khi cho nước vào ao đủ yêu cầu, bón phân xanh làm nhiều bó và dùng cây dìm xuống đáy ao không cho nổi lên mặt nước. 3. Bón phân chuồng: Ủ cho hoai mục + Liều lượng 25 – 30 kg/100 m 2 ao. + Cách bón: rải đều ở mặt đáy ao trong lúc phơi ao. Bón xong phân chuồng mới lấy nước vào. Sau khi bón phân 3 – 5 ngày nước ao có màu xanh đọt chuối non, tiến hành thả cá ương nuôi và nâng mực nước lên từ từ, sau 5 – 7 ngày mực nước cao đạt yêu cầu. b. Bể xi măng
2. Mật độ, cách thả cá bột và thức ăn a. Mật độ: Thả ương với mật độ 1.500 – 2.000 con/m 2 . b. Cách thả cá bột xuống ao: Thả bao nilon có chứa cá xuống ao 15 – 20 phút cho nhiệt độ bên trong bao chứa cá và bên ngoài ao cân bằng, tiến hành mở miệng bao, người thả cá đi lùi về phía sau cho cá ra từ từ đến khi hết cá trong bao. c. Thức ăn – Thức ăn chế biến : + Từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 7 : cho cá bột ăn lòng đỏ trứng vịt (gà) và sữa bột đậu nành. Khẩu phần : 3 lòng đỏ trứng + 100 g sữa bột đậu nành cho 10.000 con cá bột / ngày. Cách cho ăn : lòng đỏ luộc chín nghiền ra thành bột hòa tan trong nước, đậu nành ngâm trong nước 24 giờ xay nhuyễn thành bột. Khi cho ăn hòa tan thức ăn trong nước và rải đều lên mặt ao. Mỗi ngày cho ăn 3 lần, 7 giờ sáng, 11 giờ trưa và 17 giờ chiều. + Ngày thứ 8 đến ngày thứ 30 : cho ăn cám, tấm + bột cá (hoặc cá tươi). Tỷ lệ 30% cám + 70% bột cá. Khẩu phần : 300 – 500 g/10.000 cá/ngày. Cách cho ăn : thức ăn nấu chín, vò viên và đặt trong sàn ăn. Mỗi ngày cho ăn 2 lần sáng sớm và chiều mát, mỗi lần 1/2 khối lượng. + Ngày thứ 30 đến ngày thứ 60 : cho cá ăn cám + bột cá (hoặc phế phẩm của nhà máy chế biến thủy sản). Tỷ lệ 40% cám + 60% bột cá. Khẩu phần : 3 – 5% so với trọng lượng đàn/ngày. Cách cho ăn giống như giai đoạn ngày thứ 8 đến 30. – Thức ăn tự nhiên : gồm phiêu sinh động – thực vật phát triển trong ao do dinh dưỡng của phân bón và thức ăn chế biến bị thất thoát trong quá trình cho ăn. Phiêu sinh vật phù du là nguồn thức ăn tươi sống rất tốt cho sự phát triển của cá do đó trong ao ương luôn duy trì màu nước xanh. d. Chăm sóc và quản lý
e. Tốc độ tăng trưởng: Sau 60 ngày tuổi cá đạt chiều dài 3 – 5 cm và có trọng lượng 1 – 2 g/con. f. Tỷ lệ sống: Với các biện pháp kỹ thuật ương nuôi như trên tỷ lệ sống đạt 15 – 30%.
1. Điều kiện ao nuôi
Sau khi cải tạo 3 – 5 ngày tiến hành thả cá nuôi. 2. Cá giống a. Kích cỡ: Cá giống nuôi thành cá thịt có kích thước 3 – 5 cm, có trọng lượng trung bình 300 – 500 con/kg. b. Tiêu chuẩn: Cá mập, khoẻ, không xây xát, không dị hình, không bệnh tật, tương đối đồng cỡ. c. Mật độ nuôi: Đây là loài cá có cơ quan thở khí trời nên có thể sống trong điều kiện môi trường chật hẹp; nhưng khi nuôi ở mật độ cao để cá phát triển tốt ao phải chủ động cấp thoát nước. Ao có thể thả nuôi mật độ 30 – 40 con/m 2 . d. Thả cá nuôi: Thời điểm thả cá nuôi trong năm : trong điều kiện sản xuất giống nhân tạo, cá rô có thể thả nuôi quanh năm nếu chủ động được nước và con giống, trong một ao có thể nuôi 2 vòng trong năm. e. Cách thả cá nuôi – Thả cá vào ao nuôi lúc sáng sớm hay chiều mát nhằm tránh nhiệt độ cao của môi trường sẽ ảnh hưởng xấu đến cá do cá bị mệt trong quá trình vận chuyển. – Thả cá : + Nếu vận chuyển bằng bao nilon có bơm oxy, trước khi thả cá ra, thả bao nilon trên mặt nước 10 – 15 phút tạo cân bằng nhiệt độ nước bên trong bao và ngoài ao nuôi tránh cá bị sốc do chênh lệch nhiệt độ. Khi thả, mở miệng bao cho cá ra từ từ. + Nếu vận chuyển bằng phương tiện hở như thau, xô … trước khi thả cho nước vào từ từ đến khi nước ngập đầy dụng cụ chứa, cho cá tự bơi ra đến hết. + Không được đứng trên bờ ao đổ cá xuống làm cá bơi hỗn loạn, do sự biến đổi đột ngột môi trường những cá yếu không thích nghi kịp có thể chết hoặc ảnh hưởng xấu đến sự tăng trưởng khi nuôi. f. Thức ăn
3. Chăm sóc và quản lý – Thường xuyên kiểm tra cống, lưới bao quanh bờ ao nếu có hư rách phải sửa vá ngay, đặc biệt chú ý vào giai đoạn mang trứng cá có thể dùng nắp mang leo lên bờ thoát ra ngoài. – Trên mặt nước ao thả 1/10 diện tích rau muống hay bèo lục bình để hấp thu dinh dưỡng dư thừa, hạn chế ô nhiễm môi trường nước trong ao. – Thường xuyên kiểm tra tình hình ăn thức ăn của cá để điều chỉnh cho hợp lý, biện pháp này áp dụng như kỹ thuật ương cá giống. – Nước trong ao rất dễ bị nhiễm bẩn do thức ăn tạo nên, do đó tốt nhất nên thay nước hàng ngày theo thủy triều, nếu ao xa nguồn nước định kỳ 10 – 15 ngày thay 1/2 lượng nước trong ao. – Hàng ngày kiểm tra tình hình hoạt động của cá để phát hiện sớm nếu có dịch bệnh xảy ra.
Sau 4 – 5 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 50 – 100 g/con, tiến hành thu hoạch bằng hai cách : – Thu hết một lần : tát cạn ao, bắt hết cá. Ao được cải tạo lại chuẩn bị cho việc nuôi đợt tiếp. – Thu tỉa : có thể dùng lưới kéo hay tát cạn bắt những con cá lớn có giá trị thương phẩm cao để bán, những con cá còn nhỏ để lại nuôi tiếp. Hình thức này hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn do con giống lớn, thời gian nuôi lần sau ngắn, nhưng do lượng cá còn lại ít nên chuyển sang nuôi ở một ao khác có diện tích nhỏ hơn để tận dụng ao cũ thả nuôi giống mới với số lượng lớn. Năng suất : cá nuôi trong ao năng suất có thể đạt 2,5 đến trên 10 tấn/ha/năm.
1. Bệnh do nấm thủy mi (nấm nước ở cá) – Bệnh nấm thủy mi gây tác hại lớn đối với nhiều loài cá nuôi ở giai đoạn cá con, cá thịt và trứng cá. Bệnh thường xảy ra vào mùa mưa và thời tiết lạnh khi nhiệt độ xuống thấp (18 – 200C), đặc biệt khi cá bị xây xát (do đánh bắt hoặc vận chuyển) hoặc do viêm nhiễm ngoài da (do bệnh ghẻ lở hoặc do ký sinh trùng ký sinh). – Dấu hiệu bệnh lý : khi cá bị nấm thủy mi ký sinh, trên da cá xuất hiện vùng trắng xám tua tủa những sợi nấm nhỏ, mềm tạo thành những búi trắng như bông có thể nhìn thấy bằng mắt thường (để cá bệnh trong nước dễ quan sát hơn). – Cách phòng trị : Dùng BKD 40 hay còn gọi là TCCA sản phẩm công ty Sinh học Hoàn Cầu dùng định kỳ 15 ngày /lần hoặc 1 tháng /lần phòng bệnh, liều lượng 0,2 – 0,6g/m3. – Xuất hiện bệnh dùng theo phác đồ sau: Xem nguyên nhân nếu trong ao nuôi có ký sinh trùng thì dùng BTK diệt trước vào buổi sang, buổi chiều 2- 3h dùng BKA lượng dùng 150g/1000m3 nước ao dùng kết hợp với oxy hạt. Ngày hôm sau dùng BKD 40 lượng 0,6 -1g/m3 nước ao. Công việc này làm lập lại trong vòng 4 đến 5 ngày cá khỏi bệnh, BTK dùng 1 lần duy nhất. Ao nuôi nhiều mùn bã hữu cơ kế tiếp theo dùng sản phẩm BESTOT No3 để xử lý hiệu quả. – Phương pháp tắm nước muối cũng hiệu quả nhưng mất nhiều công, cá bệnh được tắm liên tục trong 3 – 5 ngày hoặc dùng muối ăn liều lượng 2 – 3 kg/m3 nước tắm cá trong 24 giờ, tắm cá liên tục trong 3 – 5 ngày. Để phòng bệnh nấm thủy mi, ao ương nuôi phải được tẩy dọn kỹ sau mỗi vụ nuôi. Khi cá bị xây xát cần phải tắm muối trước hoặc dùng thuốc sát khuẩn khi thả nuôi. 2. Bệnh lở loét – Bệnh xuất hiện ở các loài cá lóc, rô đồng, cá trê, lươn, … – Dấu hiệu bệnh lý : những dấu hiệu đầu tiên là cá ít ăn hoặc bỏ ăn, hoạt động lờ đờ, bơi nhô đầu lên mặt nước, da cá xẫm lại, có vết mòn màu xám hoặc các đốm đỏ phát triển ở đầu, thân, các vây và đuôi. Những vết loét dần dần lan rộng thành những vết loét rộng, vẩy rụng, xuất huyết và viêm. Những con cá bệnh nặng các vết loét lõm sâu tới xương. Giải phẩu các cơ quan nội tạng hầu như không biến đổi. – Cách phòng trị : + Dùng BKD40 lượng dùng 0,6 – 1g/m3 dùng liên tục trong 3 – 5 ngày, kết hợp với oxy viên cải tạo đáy ao, hoặc dùng vôi tạt xuống ao với liều lượng 2 kg/100 m3 , 2 tuần 1 lần. + Hoặc dùng muối ăn với liều lượng 2 – 3% tắm cho cá 5 – 15 phút. + Hoặc dùng thuốc tím với liều lượng 10 g/m3 tắm cho cá trong thời gian 10 – 30 phút. + Dùng kháng sinh có chứa Oxytetracyline, trộn vào thức ăn cho cá ăn liên tục 5 ngày. |